Khởi nghĩa Lam Sơn, do Lê Lợi chỉ huy, khởi binh ở Thanh Hóa vào năm 1418, ban đầu thắng lợi dòn dã, nhưng sau 6 năm tình hình có chiều hướng bất lợi. Tướng Nguyễn Chích hiến kế: “Nghệ An là nơi hiểm yếu, đất rộng, người đông...Nay ta hãy đánh lấy Trà Long (tức Trà Lân), bình định cho được Nghệ An để làm chỗ đứng chân, dựa vào đấy mà lấy nhân lực, tài lực, sau sẽ quay cờ trở ra Đông Đô thì có thể tính xong được việc dẹp yên thiên hạ” (1). Lê Lợi khen là phải.
Tháng 10/1424, Nghĩa quân Lam Sơn tiến vào Nghệ An, liên tiếp đánh thắng nhiều trận lớn như Bồ Đằng (Quỳ Châu), Trà Lân (Con cuông),...Sau đó kéo quân xuống đóng đại bản doanh tại thành Lục Niên thuộc dãy núi Thiên Nhẫn, tiến đánh và vây hãm Lam Thành. Trước sức mạnh áp đảo của nghĩa quân, tướng giặc Minh giữ Lam Thành là Phương Chính phải cầu cứu. Tướng Trần Trí đang bảo vệ Đông Đô được điều vào tiếp viện Lam Thành. Ngày 4/5/1425 Trần Trí chỉ huy, dùng thủy quân đánh vào tiền đồn thành Lục Niên ở bến Tam Soa (Hà Tĩnh). Quân ta nắm được ý đồ của giặc nên đã bố trí trận địa mai phục. Trận quyết chiến trên sông La vô cùng oanh liệt. Quân giăc bị đánh tan tác, hơn ngàn tên chết tại trận, xác thuyền ngổn ngang trên sông. Trần Trí và đám tàn quân tháo chạy về Lam Thành.
Sử sách đã viết nhiều về những vị anh hùng dân tộc như Lê Lợi, Nguyễn Trãi và các tướng lĩnh đã quết sach giặc Minh, giành lại độc lập cho đất nước. Bài viết này chỉ nêu một chuyện nhỏ về công lao của nhân dân, tuy có chép vào sử sách (2) nhưng đã phủ bụi thời gian.
Chuyện kể rằng: có một người chèo đò ngang trên sông Lam, bến đò gần chợ Tràng (nay thuộc địa phận xã Hưng Thành, Hưng Nguyên) tên là Nguyễn Tuệ. Cha mất sớm, Tuệ đã 20 tuổi, làm nghề chèo đò ngang nuôi mẹ già. Khi giặc Minh đóng quân ở Lam Thành, Tuệ đã theo bọn bất lương chèo đò thuê cho giặc tuần tiễu dọc sông Lam để kiếm được nhiều tiền. Người mẹ nhiều lần khuyên can con, không chèo đò cho giặc làm hại dân mình. Thấy con không vâng lời, bà buồn bã, phát ốm. Bà bỏ ăn, khiến Tuệ hoảng hốt, bỏ việc chèo đò ở nhà chăm mẹ. Tuệ nghe mẹ giảng giải về tội ác của quân xâm lược, về lòng dũng cảm, xả thân cứu nước của nghĩa quân Lam Sơn. Tuệ nghe lời mẹ và noi gương nghĩa quân. Từ đó, người ta vẫn thấy Tuệ chèo đò cho giặc như trước, nhưng không ai biết trong đầu anh đã nghĩ khác. Anh đã liên lạc được với nghĩa quân ở thành Lục Niên, cung cấp tin tức bọn địch ở Lam Thành mà tình cờ nghe bọn lính kháo nhau khi đi đò. Đặc biệt có một tin quan trọng, địch chuẩn bị một cuộc tấn công cứ điểm trọng yếu của nghĩa quân. Nhận tin báo, quân ta đã bố trí mai phục, đánh tan cuộc tiến công quy mô lớn của giặc. Tuệ đã nhiều lần đánh chìm thuyền giặc, trong đó có 1 thuyền chỉ huy. Một lần Nguyễn Tuệ đang phá thuyền thì bị giặc bắt và hy sinh.
Khi bà mẹ qua đời, nhân đân đã lập một ngôi miếu bên bờ sông Lam để thờ hai mẹ con Nguyễn Tuệ. Ngày trước ngôi miếu thuộc xã Hưng Khánh, huyện Hưng Nguyên, quanh năm hương khói. Nay ngôi miếu và cả vùng dân cư rộng lớn phía nam chợ Tràng đã bị nước sông Lam cuốn trôi. Câu chuyện cảm động về hai mẹ con người chèo đò vẫn được truyền tụng (3).
Dường như sức mạnh tinh thần người Việt từ ngàn xưa vẫn đang đồng hành cùng chúng ta.
Thái Huy Bích
(Sưu tầm)
Chú thích:
(1)Khâm Định Việt sử thông giám cương mục- Quốc sử quán triều Nguyễn, Nxb Khoa học xã hội, 1970, tr779.
(2) Nghệ An đất phát nhân tài- Ninh Viết Giao - Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh, 2006, tr169
(3) Địa chí văn hóa huyện Hưng Nguyên- Ninh Viết Giao chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, 2009, tr165